Triết học của Kant Triết_học_phương_Tây

Chân dung Kant do Johann Gottlieb Becker vẽ năm 1768.

Nền triết học của thế kỷ 19 được thống trị bởi các triết gia người Đức, và người mở màn trong số họ là Immanuel Kant.[136] Ông sinh năm 1724 tại thành phố Konigsberg (này là thành phố Kaliningrad của Nga) và trong suốt cả cuộc đời mình, Kant chưa bao giờ đi xa khỏi nơi này quá 100 km. Kant theo học tại trường Đại học Konigsberg và sau này trở thành giáo sư giảng dạy chính tại đây. Hầu như không có mảng kiến thức nào là Kant không đụng đến, vì ông không chỉ dạy siêu hình học, logic học, đạo đức học, mỹ học và triết học thần học mà còn giảng cả toán học, vật lý, địa lý và nhân học. Bên cạnh những di sản khổng lồ mà Kant để lại trong triết học, ông cũng có những đóng góp nhất định cho những bộ môn khoa học khác. Kant không bao giờ lấy vợ cũng như giữ những chức vụ nổi bật trong cộng đồng, và ông cũng nổi tiếng là một người sống vô cùng quy củ và điều độ.[136] Ta có thể thấy rõ điều này qua bức chân dung sinh động khi nhà thơ Heinrich Heine viết về ông:[137]

Tôi không tin chiếc đồng hồ gắn trên mặt nhà thờ lớn nơi đây có thể chạy đều đặn và bình thản hơn người công dân Immanuel Kant. Ngủ dậy, uống cà-phê, ngồi viết sách, đến lớp giảng bài, ăn, đi dạo...tất cả đều theo đúng giờ giấc, và những người hàng xóm đều biết là đúng ba giờ rưỡi là lúc Immanuel Kant bước ra khỏi nhà, mình khoác chiếc áo màu xám, tay cầm gậy trúc, đi về con phố Hàng Cây Chanh mà giờ đây mang tên Phố Triết Gia để tưởng nhớ ông. Thật là một sự đối lập giữa cuộc sống bên ngoài và những tư tưởng bên trong con người đã làm đảo lộn thế giới triết học! Nói đúng sự thật thì nếu các công dân biết đến ý nghĩa thực sự của tư tưởng Kant thì họ còn kinh hoàng khi gặp ông hơn khi nhìn thấy đao phủ chuyên hành hình tử tội. Nhưng những người chất phác chỉ thấy ông là một vị giáo sư triết, và mỗi ngày ông đi ngang qua vào đúng giờ như thường lệ, họ đều chào ông như một người quen và chỉnh lại đồng hồ mang theo.[138]

Cuộc đời của Kant có vẻ bình lặng, nhưng từ này là không đúng nếu nói về những tư tưởng của ông. Thay vào đó, từ "cách mạng" thường được sử dụng khi nói về những ý tưởng lớn và mạnh mẽ của ông. Ảnh hưởng từ cuộc cách mạng Kant đến nền triết học là rất lớn vì sau khi ông qua đời vào năm 1804, triết học hiện đại thường được chia làm hai thời kỳ là "triết học trước Kant" và "triết học sau Kant".[137]

Nhận thức luận của Kant

Các loại phán đoán

Kiến thức luôn xuất hiện dưới dạng những phán đoán (Judgment), trong đó một hiện tượng được khẳng định hoặc phủ định.[139] Do vậy, muốn làm sáng tỏ về tri thức của con người, ta phải khảo sát các loại phán đoán mà ta thực hiện. Kant cho rằng có hai loại phán đoán và một trong số đó là "phán đoán phân tích", được xây dựng dựa trên nguyên lý mâu thuẫn. Chẳng hạn, "tất cả người độc thân đều không có vợ/chồng" là một phán đoán phân tích vì khẳng định điều ngược lại chắc chắn sẽ dẫn đến mâu thuẫn.[139] Trong ví dụ này, vị từ "không có vợ/chồng" đã được chứa trong chủ thể "những người độc thân" nên ta có thể đưa ra phán đoán chỉ bằng cách phân tích các thuật ngữ đã được sử dụng.[140] Những phán đoán phân tích không cho ta thêm kiến thức về thế giới. Loại phán đoán còn lại: "phán đoán tổng hợp", tuy nhiên, lại có thể làm được nhiệm vụ này. Chẳng hạn, "những người độc thân trong phòng này đều cao hơn 1,7 mét" là một phán đoán tổng hợp vì nó tổng hợp chủ thể ('những người độc thân trong phòng") với vị từ ("cao hơn 1,7 mét") hay nói cách khác là đặc điểm "cao hơn 1,7 mét" không được chứa sẵn trong chủ thể ("những người độc thân trong phòng này"). Phủ định những phán đoán tổng hợp cũng không gây ra những mâu thuẫn về mặt logic.[141]

Bên cạnh hai loại phán đoán mà ta thực hiện, Kant còn phân biệt hai loại tri thức mà ta có, tri thức tiên nghiệm và tri thức hậu nghiệm. Tri thức tiên nghiệm là loại tri thức có thể có được độc lập với kinh nghiệm, hiển nhiên là những phán đoán phân tích sẽ thuộc vào nhóm này.[142] Ta không cần phải có số liệu thực nghiệm để biết rằng phán đoán "tất cả những người độc thân đều không có vợ/chồng" là đúng. Đối lập với tri thức tiên nghiệm là tri thức hậu nghiệm, loại tri thức chỉ có được khi thu thập từ kinh nghiệm, giống như phán đoán "những người độc thân trong phòng này đều cao hơn 1,7 mét" vậy, kết luận cho phán đoán này chỉ có thể tìm nhờ vào thực nghiệm.[141]

Việc phân loại như vậy đưa đến cho ta bốn loại phán đoán. Các loại phán đoán này sẽ được liệt kê ở đây kèm với ví dụ để làm rõ hơn:

  1. Phân tích tiên nghiệm: Thường là những phán đoán xây dựng trên nguyên lý mâu thuẫn. Ví dụ, "mọi vật thể đều có quảng tính" hoặc "mọi cha mẹ đều đã có con".
  2. Phân tích hậu nghiệm: Không tồn tại loại phán đoán này, một khi phán đoán là phân tích, chúng sẽ không được dựa trên kinh nghiệm.
  3. Tổng hợp hậu nghiệm: Phần lớn những phán đoán của ta khi quan sát hoặc trải nghiệm thế giới được xếp vào nhóm này, ví dụ như: "Quả bóng này đang rơi" hoặc "Quả táo này có màu đỏ".

Vấn đề nảy sinh ở loại phán đoán cuối cùng: Tổng hợp tiên nghiệm. Làm sao có thể có loại phán đoán cho ta hiểu biết về thế giới (tổng hợp) mà đồng thời lại không phụ thuộc vào kinh nghiệm (tiên nghiệm) được? Nhưng Kant cho rằng có tồn tại những phán đoán như vậy. Ví dụ như phán đoán "7 + 5 = 12" là một phán đoán tổng hợp tiên nghiệm vì ta không thể phân tích khái niệm "5" và "7" để tìm ra "12", hoặc một phán đoán tương tự là "Đoạn thẳng là khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm" khi khái niệm "ngắn" không được chứa sẵn trong "thẳng" nhưng ta vẫn biết điều này là chính xác. Phán đoán tổng hợp tiên nghiệm là một trong những chủ đề quan trọng của triết học Kant.[141]

Không gian và thời gian: Những hình thái của nhận thức

Hình bìa của tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy, ấn bản năm 1781.

Không gian và thời gian là hai đặc tính quan trọng và cơ bản nhất của các vật thể trong thế giới, do vậy, để tìm hiểu về cách con người hiểu về thế giới là xem xét cách mà con người trải nghiệm không và thời gian.[143] Trước khi đi đến những lập luận của Kant, ta có thể làm một thí nghiệm tưởng tượng nhỏ: Ta hãy loại bỏ từng đồ vật hoặc từng vật thể một trên thế giới này cho đến khi không còn lại gì cả ngoài không gian, trạng thái "không có gì cả" này xem ra vẫn có thể hình dung được. Nhưng hãy tưởng tượng vật thể mà không có không gian, giống như là tưởng tượng một cái hộp mà không có ba chiều không gian vậy. Điều này là không thể thực hiện được vì đặc tính không gian là khác với đặc tính và vật thể của cảm giác. "Không gian" là một cách để tâm trí trật tự hóa "cảm giác" nhưng tự nó thì không phải là một cảm giác: con người không thể trải nghiệm được "không gian" mà trải nghiệm các vật thể được cấu trúc về mặt không gian.[144] Kant gọi không gian là hình thái của các giác quan bên ngoài và thời gian, với những lập luận tương tự, là hình thái của các giác quan bên trong.[145]

Học thuyết của Kant về không gian và thời gian được đề ra để giải thích tại sao toán học có thể đưa đến cho ta những phán đoán tổng hợp tiên nghiệm. Hình học, chẳng hạn, là môn khoa học để nghiên cứu về không gian còn số học, ít hợp lý hơn, là cách để xử lý những con số nên có liên quan đến thời gian. Bằng việc gắn bộ môn toán vào với không-thời gian và đồng thời chỉ ra rằng: không-thời gian là phương thức (hay hình thái, cấu trúc) phổ biến và thiết yếu trong cách ta kinh nghiệm về thế giới, Kant giữ lại được bản chất tiên nghiệm ("có trước kinh nghiệm") của toán học mà vẫn cho thấy bộ môn này có thể cung cấp thêm thông tin về thế giới.[144]

Các phạm trù của Kant

Kant cho rằng: Giác tính (Understanding) và cảm năng (Sense) là ngang hàng và không phụ thuộc với nhau trong việc thu nhận tri thức về thế giới, như Kant viết trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy của ông:[146]

Ý niệm không có nội dung thì rỗng tuếch, trực quan mà không có khái niệm thì mù lòa...Giác tính không có khả năng tri nhận thứ gì, cảm năng không có khả năng nghĩ ra thứ gì. Chỉ từ sự hiệp nhất của chúng mà tri thức mới có thể nảy sinh.

Bức tranh Chiều chủ nhật trên đảo Grande Jatte, của họa sĩ Georges Seurat.

Như ta đã thấy về cách cảm giác của ta được cấu trúc trong không gian và thời gian ở trên, nhưng chỉ cảm năng và những hình thái của nhận thức là không đủ để đưa đến cho ta những trải nghiệm thường ngày như bàn, ghế hoặc quả táo. Nếu chỉ dựa vào khả năng cảm nhận để trải nghiệm thế giới, ta sẽ thu được những cảm giác định khu và rời rạc trong không gian và thời gian (một chút màu, âm thanh, mùi vị, kết cấu) nhưng không phải tri thức toàn thể. Muốn có được tri thức (như bàn ghế hoặc quả táo) thì cần phải có thêm những nguyên tắc để tổ chức và sắp xếp những cảm giác thu được. Những nguyên tắc này thuộc vào khả năng của giác tính. Giác tính chủ động tổ chức các trải nghiệm thu được nhờ vào những khái niệm tiên nghiệm được gọi là các phạm trù; hay nói cách khác, các phạm trù thể hiện cách thức tâm trí tổ chức những trải nghiệm.[147] Theo Kant, có tổng cộng 12 phạm trù được chia làm bốn nhóm đó là: Số lượng (đơn nhất, đa số, toàn thể), tính chất (thực tại, phủ định, giới hạn), quan hệ (thực thể và ngẫu nhiên, nhân quả, tương hỗ) và dạng thái (khả năng, hiện tượng tồn tại, tất nhiên).[148]

Và đến đây ta có thể nắm bắt được phần nào "Cuộc cách mạng Copernic" mà Kant đã tạo ra trong triết học. Nếu như các nhà duy nghiệm cho rằng tâm trí là thụ động khi đối diện với thế giới và chỉ đơn giản là thu nhận những trải nghiệm mà nó có được; từ góc nhìn này thì tri thức của ta phù hợp (conform) với các khách thể. Nhưng Kant (giống như Copernic khi đặt Mặt Trời làm tâm thay thế cho vị trí của Trái Đất) đã đảo ngược bức tranh thông thường, ông đã chỉ ra rằng, có thể, các khách thể phù hợp với tri thức của ta.[149] Các giác quan có thể thu nhận những trải nghiệm, nhưng để tạo ra bức tranh thế giới mà ta biết thì những trải nghiệm này cần phải được cấu trúc nhờ tâm trí. Có thể làm rõ luận điểm này khi ta quan sát bên tranh bên trên: giác quan sẽ thu nhận những chấm màu nhỏ li ti của tác phẩm, sau đó tâm trí sẽ xử lý những trải nghiệm thu được thành những mảng màu, những hình dạng nhất định và cho ta cảm nhận về không gian hay phong cảnh đang được khắc họa. Như vậy, cả giác quan và lý trí đều góp phần trong cách ta tri nhận thế giới. Bằng việc nhấn mạnh vai trò của cả giác tính và cảm năng, có thể coi Kant là người đã thống nhất được hai chủ nghĩa đã lâu ngày đối đầu trong nhận thức luận: chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy nghiệm.[149][150]

Siêu hình học của Kant

Bức tranh khắc gỗ Flammarion đang miêu tả một người nhìn ra ngoài không gian và thời gian. Với Kant, những thứ gì vượt ngoài không-thời gian là không thể tri nhận với con người.

Khả năng để con người có thể thu thập những thông tin của hiện thực vượt ra ngoài kinh nghiệm là vô cùng hạn chế, nếu không muốn nói là bất khả thi. Tất cả những hiểu biết của ta về thế giới đều được cấu trúc trong không-thời gian và được tổ chức nhờ những phạm trù của giác tính. Với khả năng trải nghiệm hữu hạn như vậy, tìm kiếm những hiện thực siêu nghiệm, vượt ngoài kinh nghiệm của con người thì cũng giống như là cố gắng nhảy ra khỏi bộ da của chính mình vậy.[151]

Kant phân biệt hai loại thế giới. Con người chỉ có khả năng nhận thức được các khách thể trong thế giới khả giác (Phenomena). Hay nói cách khác, thế giới khả giác chính là thế giới mà ta vẫn đang sống và trải nghiệm, tuyên bố về một thứ gì vượt ngoài thế giới này là không rõ ràng.[151] Dù vậy, Kant vẫn nói về thế giới vượt trên những trải nghiệm của chúng ta, đó là thế giới khả niệm (còn được gọi là "thế giới thực tướng", Noumena), thế giới của các "vật tự thể".[152] Đúng như tên gọi, ta không thể trải nghiệm cũng như đưa ra những khái niệm thực chứng nào về thế giới này, nó tồn tại nhưng vượt ngoài phạm vi nhận thức của con người và tất nhiên là vượt ngoài các phạm trù của giác tính. Con người có thể ý thức về sự trình diện của các vật tự thể trong thế giới khả giác, nhưng không bao giờ có thể nhận thức về thế giới khả niệm.[151]

Luân lý học của Kant

Trong lĩnh vực luân lý, Kant khởi đầu bằng cách cho rằng, thứ duy nhất tốt đẹp không cần qua nhận định hoặc đánh giá là thiện chí (good will). Những điều được coi là "tốt" khác như tài năng, thể lực, trí tuệ, tính cách,... đều có thể được sử dụng với những mục đích xấu. Thiện chí không được coi là tốt vì những gì nó đạt được (giống như tài năng...), tự nó đã là cái tốt.[153]

Vậy khi nào thì một ý chí được coi là thiện chí? Đến đây ta sẽ cần đào sâu về khái niệm nghĩa vụ (duty). Thực hiện nghĩa vụ có nghĩa là thể hiện thiện chí ngay cả trong những nghịch cảnh.[153] Kant phân biệt giữa "hành động phù hợp với nghĩa vụ" và "hành động có động lực từ nghĩa vụ".[154] Một chủ tiệm không bao giờ lừa dối khách hàng để giữ gìn uy tín trong làm ăn là ví dụ về hành động phù hợp với nghĩa vụ. Tuy nhiên, theo Kant, những hành động này không có giá trị về mặt đạo đức. Giá trị đạo đức được thể hiện khi một người làm việc tốt với động cơ không phải từ những mục đích (như là "giữ gìn uy tín trong làm ăn") mà từ chính nghĩa vụ: chẳng hạn như một người dù đã không còn hứng thú gì với cuộc sống và rất muốn chết nhưng vẫn giữ gìn mạng sống để phù hợp với những quy luật đạo đức.[153] Việc đặt trọng tâm vào những nghĩa vụ khiến luân lý học của Kant được xếp vào nhóm luân lý nghĩa vụ (nghĩa vụ luận, deontology), tương phản với luân lý mục đích luận (teleology) hoặc hệ quả luận (consequentialism).[155]

Những quy luật đạo đức là những quy luật chỉ dẫn cho hành vi của chúng ta. Những luật này có thể được trình diện cho ta dưới dạng những mệnh lệnh thức. Kant chia mệnh lệnh thức làm hai loại. Loại đầu tiên được gọi là lệnh thức giả định, ở dạng tổng quát thì chúng sẽ có dạng: "Nếu bạn muốn X thì hãy làm Y", chẳng hạn như "Nếu muốn mọi người đối xử tốt với mình thì hãy thân thiện với mọi người". Tuy nhiên, giống như đã chỉ ra ở trên, những lệnh thức kiểu như thế này sẽ không thể là những luật đạo đức vì chúng vẫn còn hướng đến một số mục đích nhất định, dù mục đích ấy xứng đáng.[155] Theo Kant, những quy luật đạo đức được trình diện cho ta dưới dạng những lệnh thức tuyệt đối (hoặc lệnh thức phạm trù, categorical imperative) và vì không hướng đến mục đích nhất định nào, chúng sẽ có dạng "Làm X!" Những quy luật đạo đức này giống như những quy luật trong toán học, chẳng hạn như 2 + 2 x 2 = 6, chúng là đúng với mọi người, mọi thời điểm, trong mọi trường hợp và dù có thích kết quả hay không thì ta phải tuân theo nếu còn có lý trí.[155]

Dù có thể được diễn tả theo các cách khác nhau để nhấn mạnh vào những khía cạnh khác nhau, chỉ có một lệnh thức tuyệt đối là:[156][157]

Chỉ nên hành xử theo phương châm mà qua đó, bạn có thể muốn phương châm đó trở thành một quy luật phổ quát.

Ta có thể làm rõ lệnh thức qua một ví dụ. Tưởng tượng rằng ta đang cạn vốn và ta sẽ đi vay tiền dù biết rằng sẽ không có khả năng hoàn lại số tiền đã mượn. Phương châm mà ta đã hành động ở đây là: "Khi nào cạn túi, ta sẽ đi mượn tiền và hứa trả lại dù biết rằng điều này (hoàn lại tiền) là không thể thực hiện được". Một cách có lý trí, ta không thể thành thực mong muốn phương châm này được sử dụng bởi tất cả mọi người ("trở thành quy luật phổ quát") vì như vậy thì toàn bộ hệ thống hứa hoặc cam kết sẽ hoàn toàn sụp đổ.[157] Do vậy, việc vay tiền trong trường hợp này đã vi phạm vào lệnh thức và không phải là hành vi đạo đức. Ta có thể từng bắt gặp lệnh thức này của Kant thấp thoáng trong những câu nói thường ngày: "Nếu ai mà cũng làm như vậy thì sao?" hoặc trong Phúc Âm có viết: "...hễ điều chi mà các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì cũng hãy làm điều đó cho họ..."[156][158] Lời của Kant về đạo đức sẽ còn vang vọng lâu dài trong lĩnh vực luân lý học và ngay cả ở thời điểm hiện tại, có thể nhiều người vẫn sẽ tán thành với ông.[159][160]